Bệnh võng mạc bé sinh non (ROP) ngày nay được biết đến như là một nguyên nhân gây mù lòa chính ở trẻ em.
Đây là tình trạng bệnh lý của mắt thường gặp ở những bé sinh non, nhẹ cân (< 1,6 kg). Mạch máu võng mạc ở mắt là phần cuối cùng phát triển hoàn thiện cho đến khi thai nhi đủ tháng, nhưng ở nhiều bé sinh non, những mạch máu này không được phát triển hoàn thiện, sự phát triển bất thường này có thể dẫn đến những tổn hại của võng mạc và ảnh hưởng đến thị giác của bé. Nếu bệnh không được phát hiện và điều trị kịp thời thì sẽ có nguy cơ mù vĩnh viễn cả hai mắt.
Nguyên nhân
Cho đến nay, người ta chưa xác định được chính xác yếu tố nào là nguyên nhân gây ra bệnh ROP, nhưng thở oxy nồng độc cao và kéo dài được xem là một trong những yếu tố nghi ngờ có liên quan đến bệnh ROP.
Phát hiện và điều trị
Để phát hiện và điều trị kịp thời bệnh ROP cần phải quan tâm tới những yếu tố: không phải tất cả bé sinh non đều mắc bệnh, nhưng những bé sinh càng non, càng nhẹ cân (<1,6 kg) và toàn trạng ốm yếu thì nguy cơ mắc bệnh càng cao. Vì vậy, với những bé sinh non, có cân nặng <1,6 kg nên được khám loại.
Để điều trị bệnh ROP có 2 phương pháp:
* Phương pháp laser: sử dụng laser để tác động trực tiếp lên võng mạc. Đây là phương pháp được sử dụng với những bệnh võng mạc một cách an toàn và hiệu quả từ gần 30 năm nay.
* Phương pháp lạnh đông: sử dụng đầu lạnh đông để tác động gián tiếp lên võng mạc qua củng mạc. Hiệu quả của điều trị khá tốt nếu bệnh được phát hiện sớm và bé bị bệnh ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Tiến bộ trong điều trị
TS. BS. Nguyễn Xuân Tịnh (Phó trưởng khoa Mắt trẻ em, Bệnh viện Mắt Trung ương) cho biết: Điều kỳ diệu lần đầu tiên đã đến với những bệnh nhân mắc bệnh võng mạc bé sinh non hình thái nặng, đó là vào năm 2006, một số bác sĩ nhãn khoa trên thế giới áp dụng phương pháp điều trị mới – tiêm thuốc bevacizumab vào nội nhãn để điều trị tình trạng bệnh lý nặng này và kết quả bệnh đã thoái triển và bé tránh được mù lòa. Từ đó đến nay, trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu áp dụng phương pháp điều trị này để cứu vãn thị lực cho những bé bị bệnh.
Ở Việt Nam, phương pháp điều trị này cũng bắt đầu được nghiên cứu áp dụng điều trị cho các trường hợp bị bệnh nặng từ năm 2010. Cho đến nay, đã có hàng trăm bệnh nhân được điều trị theo phương pháp này. Kết quả nghiên cứu ban đầu cho thấy 100% bệnh nhân đạt kết quả tốt nếu chỉ định điều trị không bị chậm trễ và cũng chưa ghi nhận tác dụng phụ gây hại tại mắt cũng như toàn thân.
Anh Mậu