Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cơ thể mẹ và thai nhi, quyết định đến sức khỏe của mẹ, sự phát triển của thai nhi và sự thành công của việc sinh nở. Trong đó, dinh dưỡng đúng cách là yếu tố quan trọng hàng đầu.
Cần cho cả mẹ và bé
Em bé trong bụng cần có đủ lượng và chất dinh dưỡng để phát triển não và thể chất. Trong đó, đặc biệt phải có đủ 3 chất sinh năng lượng (bột đường, đạm, béo), càng không thể thiếu chất xơ, các vitamin và khoáng chất.
Trong 9 tháng mang thai, mẹ cần tăng 10-12 kg để có một em bé đủ cân (3kg) và đủ cao (50cm) khi ra đời. Ba tháng đầu, mẹ cần tăng 1-2 kg, 3 tháng giữa phải lên 4-5kg và tăng tốc trong 3 tháng cuối, lên 5-6kg. Nếu mẹ gầy hoặc có đa thai, cần tăng trọng lượng nhiều hơn (14-18kg). Mẹ thừa, cân béo phì chỉ nên tăng khoảng 6-10 kg là đủ.
Với nhu cầu tăng thêm 300kcal/ngày, mẹ cần ăn tăng thêm 1/2 chén cơm (hoặc bún, phở, hủ tiếu, mì, nui, khoai củ…) cho mỗi bữa ăn, 2 ly sữa mỗi ngày và ăn thêm 1-2 bữa phụ với các loại bánh, trái cây, sữa chua… ngoài 3 bữa chính. Mẹ cần ăn đa dạng, cân đối giữa các nhóm thực phẩm để được cung cấp đầy đủ các dưỡng chất.
Những chất cần tăng cường bổ sung
Chất đạm có nhiều trong thịt, cá, tôm, cua, trứng, các loại đậu, phomai… Mẹ cần ăn thêm 15g đạm (70-80g thịt cá) mỗi ngày. Chất béo từ dầu, mỡ, bơ, margarin, mè (vừng), đậu phộng, đậu nành… cung cấp rất nhiều năng lượng và giúp hấp thu các loại vitamin tan trong chất béo quan trọng như A, D, E, K. Ăn cá rất tốt cho cả hai mẹ con, nhất là các loại cá biển béo.
Ngoài ra, mẹ cần tăng cường rau xanh, rau củ và trái cây tươi, mỗi ngày 300g. Đây là nguồn cung cấp chất xơ chủ yếu, giúp phòng chống táo bón trong thai kỳ. Hơn nữa, nhóm thực phẩm này còn cung cấp nhiều loại vitamin và khoáng chất quan trọng.
Trong giai đoạn mang thai, nhu cầu canxi của mẹ tăng rất cao, gấp 2-3 lần so với bình thường (1.000-1.500mg/ngày). Nguồn canxi này được cung cấp qua 2 ly sữa, 2 miếng tàu hũ lớn, 100-200g cá nhỏ nguyên xương hay tôm tép nguyên vỏ, 50g mè.
Lúc mang thai, nhu cầu chất sắt tăng vọt để tạo thêm máu cho mẹ và thai nhi. Chế độ ăn không cung cấp đủ mà phải uống thêm mỗi ngày một viên sắt (do bác sĩ chỉ định) từ khi phát hiện có thai và liên tục cho đến một tháng sau sinh. Các thực phẩm giàu sắt là gan, trứng, thịt, cá... Mẹ nên dùng kèm với các thực phẩm cung cấp vitamin C như rau, trái cây để tăng hiệu quả hấp thu sắt.
Bên cạnh đó, mẹ cần sử dụng muối i-ốt thay cho muối thường để cung cấp đủ chất i-ốt cho quá trình tạo phôi và phát triển thai nhi, phòng tránh suy giáp bẩm sinh và bệnh đần độn, thiểu năng trí tuệ cho bé.
Các thực phẩm giàu kẽm như gan, hàu, sò… cũng rất cần thiết cho cơ thể mẹ và thai nhi.
Axit folic (vitamin B9) ngoài tác dụng tạo máu còn cần cho sự phát triển hệ thần kinh trung ương của thai. Gan động vật, các loại rau lá xanh (súp lơ xanh, măng tây, rau diếp, bầu bí), đậu, ngũ cốc, thịt, sữa, trái cây (chanh, cam, quýt, chuối, dưa), các chế phẩm từ sữa (sữa chua, pho mai, bánh flan…) là nguồn cung cấp axit folic.
Vitamin B12 giúp tạo máu và duy trì hệ thống thần kinh, có nhiều trong thịt, cá, sữa và chế phẩm từ sữa. Mẹ ăn chay hoặc không thể uống sữa cần phải bổ sung B12 trong thai kỳ.
Các vitamin quan trọng khác như vitamin A, B, C, D… cần được cung cấp trong chế độ ăn giàu rau, củ, trái cây tươi và tắm nắng 15-20 phút mỗi ngày vào buổi sáng.
Ngoài chế độ dinh dưỡng hằng ngày, mẹ cũng cần uống bổ sung thêm mỗi ngày một viên đa sinh tố theo tư vấn của bác sĩ sản khoa để đảm bảo cung cấp đầy đủ nhất các chất dinh dưỡng cần thiết cho cả mẹ và thai nhi.
BS.CK1 Đào Thị Yến Thủy
Trung tâm Dinh dưỡng TP. HCM